CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ PHÒNG TƯ PHÁP TAM KỲ
x
Trang chủGiới thiệuTin tức sự kiệnThông tin tuyên truyềnVăn bảnTư vấn pháp luật

Chính quyền điện tử

  • Lịch công tác tuần
  • Hệ thống trao đổi nội bộ
  • Hệ thống QLVB & HSCV (Q.office)
  • Thủ tục hành chính
  • Cải cách hành chính
  • Xử lý vi phạm hành chính
  • Mỗi tuần một điều luật
  • Danh bạ điện thoại
  • Email công vụ

THPL

Vản bản mới

Quyết định Công nhận xã phường đạt chuẩn tiếp cận pháp luật năm 2022
Về việc triển khai thí điểm thực hiện tiếp nhận và trả kết quả không phụ thuộc địa giới hành chính
Quyết định Phê duyệt quy trình nội bộ giải quyết thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền quản lý và phạm vi giải quyết của Sở Tư pháp
Thông tư Bãi bỏ một số văn bản quy phạm pháp luật do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành, liên tịch ban hành
Nghị định Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 113/2017/NĐ-CP ngày 09/10/2017 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hóa chất
Quyết định Ban hành quy trình thực hiện thủ tục hành chính trực tuyến thiết yếu thuộc lĩnh vực tư pháp theo Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng chính phủ
Kế hoạch Truyền thông về giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn thành phố Tam Kỳ giai đoạn 2022 – 2025

Video tuyên truyền pháp luật

  • Xăm mình có đi nghĩa vụ quân sự không
  • Vị Trí Công Chức, Viên Chức Nào Được Bỏ Chứng Chỉ Ngoại Ngữ, Tin Học?
  • Bộ câu hỏi cuộc thi Rung chuông vàng
  • Chuyền đề tuyên truyền pháp luật về gia điình
  • Giới thiệu Thông tư số 09 2021 TT BTP ngày 15 11 2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp

Liên kết web

Copy1 of VanBanPhapLuat
lk1
lk21
lk5
lk6

Thống kê truy cập

Hiện có 116 khách Trực tuyến
Hôm nayHôm nay1213
Hôm quaHôm qua2991
Tuần nàyTuần này13198
Tháng nàyTháng này68552
Tất cảTất cả25761894
Nghiên cứu trao đổi
Sửa Luật Đất đai (sửa đổi): 10 nội dung đổi mới
Thứ hai, 20 Tháng 2 2023 04:06

 

Quy hoạch sử dụng đất, về giao đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất, xác định giá đất... được xem là những điểm đáng chú ý trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi).

Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) lần thứ 2 đang lấy ý kiến nhân dân đã thể chế 3 mục tiêu tổng quát, 6 mục tiêu cụ thể, 6 nhóm giải pháp và 8 nhóm chính sách lớn tại Nghị quyết số 18-NQ/TW.

Trên cơ sở đó, Dự thảo có 10 nội dung đổi mới, bao quát nhiều vấn đề về chính sách đất đai. Đó là quy hoạch sử dụng đất, quy định về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất, xác định giá đất, chính sách tài chính về đất đai, thị trường quyền sử dụng đất, chính sách về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp, quản lý và sử dụng đất kết hợp đa mục đích, cải cách hành chính, chuyển đổi số, thanh kiểm tra.

Phân vùng 3 khu vực không gian sử dụng đất

Dự thảo đổi mới và nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Các quy hoạch quốc gia cũng như quy hoạch sử dụng đất và các quy hoạch ngành, lĩnh vực có sử dụng đất phải bảo đảm phù hợp, thống nhất, đồng bộ, gắn kết chặt chẽ thúc đẩy lẫn nhau để phát triển. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được lập ở cấp quốc gia, cấp tỉnh và cấp huyện, đáp ứng yêu cầu thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững; bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã quy định khoanh định, bố trí không gian sử dụng đất theo 3 khu vực gồm khu vực quản lý nghiêm ngặt, khu vực hạn chế và khu vực được chuyển mục đích sử dụng đất; quy định kết hợp giữa chỉ tiêu sử dụng đất với không gian sử dụng đất và xác định vị trí, ranh giới, diện tích thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất đến từng thửa đất trong quy hoạch sử dụng đất cấp huyện.

Giao đất, cho thuê đất qua đấu giá, đấu thầu

Dự thảo hoàn thiện các quy định về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất. Thực hiện việc giao đất, cho thuê đất chủ yếu thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất. Quy định chặt chẽ các trường hợp giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất.

Sửa Luật Đất đai (sửa đổi): 10 nội dung đổi mới - Ảnh 1.

Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) quy định chặt chẽ các trường hợp giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất

Cơ bản thực hiện hình thức cho thuê đất trả tiền hàng năm và quy định cụ thể các trường hợp thuê đất trả tiền một lần phù hợp với tính chất, mục đích sử dụng đất, bảo đảm nguồn thu ổn định.

Quy định điều kiện giao đất, cho thuê đất, hạn mức sử dụng đối với các tổ chức tôn giáo phù hợp với quỹ đất hiện có của địa phương; tổ chức tôn giáo sử dụng đất vào mục đích khác phải trả tiền thuê đất cho Nhà nước theo quy định của pháp luật.

Chặt chẽ về thu hồi đất

Dự thảo quy định cụ thể hơn về thẩm quyền, mục đích, phạm vi thu hồi đất, điều kiện, tiêu chí cụ thể thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Hoàn thiện quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.

Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải đi trước một bước, bảo đảm công khai, minh bạch, hài hòa lợi ích của Nhà nước, người có đất bị thu hồi và nhà đầu tư, để người dân có đất bị thu hồi phải có chỗ ở, bảo đảm cuộc sống bằng hoặc tốt hơn. Quy định cụ thể việc khai thác hiệu quả quỹ đất phụ cận để phát huy nguồn lực đất đai cho phát triển kinh tế xã hội và các cơ chế góp quyền sử dụng đất, điều chỉnh lại đất đai, chỉnh trang đô thị và khu dân cư nông thôn.

Đổi mới về giá đất, tài chính đất đai, thị trường quyền sử dụng đất

Dự thảo hoàn thiện cơ chế xác định giá đất theo nguyên tắc thị trường, các cơ chế kiểm tra, giám sát của Trung ương và Hội đồng nhân dân trong việc xây dựng bảng giá đất. Bổ sung, hoàn thiện các quy định bảo đảm công khai, minh bạch như: Công khai giá đất, giao dịch qua các sàn giao dịch đối với các dự án khu dân cư, khu đô thị, nhà ở thương mại.

Một trong những điểm mới là hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính về đất đai bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư; có cơ chế điều tiết hợp lý, hiệu quả nguồn thu từ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất giữa Trung ương và địa phương; điều tiết chênh lệch địa tô, bảo đảm công khai, minh bạch. Quy định mức thuế cao hơn đối với người sử dụng nhiều diện tích đất, nhiều nhà ở, đầu cơ đất, chậm sử dụng đất, bỏ đất hoang. Thể chế chính sách ưu đãi thông qua việc miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phù hợp với lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư và các đối tượng chính sách.

Sửa Luật Đất đai (sửa đổi): 10 nội dung đổi mới - Ảnh 2.

Dự thảo sẽ quy định rõ về việc công khai giá đất, giao dịch qua các sàn giao dịch đối với các dự án khu dân cư, khu đô thị, nhà ở thương mại

Hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan đến thị trường bất động sản, trong đó có thị trường quyền sử dụng đất, đẩy mạnh thương mại hóa quyền sử dụng đất là điểm mới tiếp theo. Dự thảo chủ trương xây dựng hệ thống thông tin thị trường bất động sản gắn với thông tin đất đai; có chính sách khuyến khích phát triển thị trường quyền sử dụng đất, nhất là thị trường cho thuê đất nông nghiệp.

Hoàn thiện các chế định về điều tiết của Nhà nước để bảo đảm thị trường bất động sản phát triển lành mạnh, an toàn, bền vững. Thực hiện đăng ký bắt buộc về quyền sử dụng đất và đăng ký biến động đất đai, đồng thời có chế tài cụ thể, đồng bộ ngăn chặn các trường hợp giao dịch không đăng ký tại cơ quan Nhà nước.

Nâng hiệu quả đất đai

Để nâng hiệu quả tài nguyên đất, Dự thảo chú trọng đến các quy định về quản lý đất nông nghiệp và loại đất kết hợp đa mục đích.

Theo đó, Dự thảo hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp theo hướng mở rộng đối tượng, hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp, quy định để người sử dụng đất nông nghiệp được chuyển đổi mục đích sản xuất cây trồng, vật nuôi, nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo quy hoạch. Tăng cường quản lý chất lượng đất, khắc phục tình trạng thoái hóa, suy giảm chất lượng đất. Quy định về ngân hàng cho thuê đất nông nghiệp. Có các quy định để quản lý, sử dụng hiệu quả đất đai có nguồn gốc nông, lâm trường và giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc.

Dự thảo cũng quy định về quản lý và sử dụng đất kết hợp đa mục đích, đất ở kết hợp với thương mại, dịch vụ; đất nông nghiệp kết hợp với thương mại, dịch vụ; đất quốc phòng, an ninh kết hợp với kinh tế; đất dự án du lịch có yếu tố tâm linh; đất xây dựng công trình trên không, công trình ngầm, đất hình thành từ hoạt động lấn biển.

Ngoài ra, các điểm mới còn liên quan đến đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất; bảo đảm quản lý, vận hành, kết nối và chia sẻ thông tin tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với giám sát, kiểm soát quyền lực. Dự thảo cũng đổi mới, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm; giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai.

Nguồn: https://cafef.vn

 
Thí điểm ủy quyền cho cán bộ tư pháp trực tiếp ký chứng thực là sự cải cách TTHC phù hợp
Thứ tư, 26 Tháng 10 2022 10:32

Thí điểm ủy quyền cho cán bộ tư pháp trực tiếp ký chứng thực là sự cải cách TTHC phù hợp

SỰ KIỆN18:02 | 22/10/2021

Từ ngày 1-7-2021, TP Hà Nội thực hiện thí điểm ủy quyền cho công chức Tư pháp - Hộ tịch các phường trực tiếp ký chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký. Đến nay đã cho thấy đây là sự cải cách TTHC phù hợp, cách làm này đang giúp giảm chi phí, thời gian chờ đợi cho người dân.

 

Thí điểm ủy quyền cho cán bộ tư pháp trực tiếp ký chứng thực giảm chi phí và thời gian chờ đợi cho người dân

Chuyển đổi số trong lĩnh vực Hộ tịch - Chứng thực

Vừa qua, UBND quận Nam Từ Liêm đã tổ chức mở lớp “Bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Hộ tịch – Chứng thực” với hình thức tập huấn trực tuyến. Báo cáo viên Nguyễn Minh Dũng - Cục Công nghệ thông tin - Bộ Tư pháp truyền đạt các nội dung về đăng ký hộ tịch điện tử, việc kết nối giữa đăng ký khai sinh với cấp thẻ BHYT và kết nối với hệ thống một cửa điện tử của UBND TP Hà Nội.

Theo ông Đỗ Gia Ánh - Phó trưởng Phòng Tư pháp, quận Nam Từ liêm thì trong những năm gần đây, quận Nam Từ Liêm là một trong những đơn vị thực hiện việc chuyển đổi số trong lĩnh vực Hộ tịch - Chứng thực; các tài liệu trong lĩnh vực này được chuyển đổi từ dữ liệu giấy sang giữ liệu số đảm bảo sự kết nối trong ngành tư pháp.

Năm 2021 là năm đầu tiền thực hiện mô hình “Chính quyền đô thi” theo Nghị quyết 97/2019/QH14 ngày 27-11-2019 của Quốc hội và Nghị định 32/2021/NĐ-CP ngày 29-3-2021 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết số 97/2019/QH14 ngày 27-11-2021 của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình Chính quyền đô thi tại TP Hà Nội.

Theo đó có sự phân cấp, ủy quyền về cơ sở trong hoạt động chứng thực; công chức Tư pháp-Hộ tịch tại các phường vừa bổ sung quyền ký chứng thực bản sao từ bản chính và chứng thực chữ ký song gắn với đó nghĩa vụ, trách nhiệm nặng nề.

Vì vậy, quận Nam Từ Liêm luôn quán triệt mỗi cán bộ công chức Tư pháp - Hộ tịch cần xác định rõ vị trí, vai trò quan trọng hoạt động chứng thực, hộ tịch để làm tốt việc đưa pháp luật chứng thực, hộ tịch vào đời sống tạo thuận lợi cho công dân, tổ chức ngay từ cơ sở;

Tại buổi tập huấn, ông Ánh đã hướng dẫn các đồng chí cán bộ được cấp chữ ký số trong việc chứng thực bản sao điện tử trên Cổng thông tin điện tử Quốc gia và giải đáp các vướng mắc về việc đăng ký hộ tịch điện tử và chứng thực bản sao điện tử trên Cổng dịch vụ công Quốc gia.

Là bước cải cách TTHC phù hợp

“Yêu cầu chứng thực chiếm số lượng lớn hồ sơ hành chính ở phường, khi ủy quyền cho công chức trực tiếp ký đã giúp lãnh đạo phường chúng tôi giảm tải được công việc này, có thêm thời gian cho các công tác quản lý khác”, đó là nhìn nhận của bà Phạm Thị Bích Hằng, Phó Chủ tịch UBND phường Phúc Đồng, quận Long Biên.

Hiện tại, phường Phúc Đồng có 2 cán bộ tư pháp, trong đó một người được ủy quyền ký chứng thực trực tiếp làm việc tại bộ phận một cửa. Trong trường hợp công chức này có việc cần nghỉ, lãnh đạo UBND phường sẽ ký.

Tại thị xã Sơn Tây, sau khi rà soát các phường công chức tư pháp đều đủ điều kiện, từ ngày 1-7 đến ngày 7-7, các phường đã ban hành Quyết định ủy quyền. Ông Đào Hiến Chương, Trưởng phòng Tư pháp thị xã Sơn Tây cho biết, “qua thời gian đầu thực hiện, cán bộ tư pháp nhiều phường cho rằng việc họ trực tiếp ký chứng thực đã góp phần giảm bớt quy trình nội bộ, giúp cho họ chủ động trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của mình.

Bên cạnh đó , tôi thấy việc này giúp cho Chủ tịch và các Phó Chủ tịch UBND phường có thêm thời gian để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn khác, nhất là trong thời điểm cả hệ thống chính trị phải tập trung cho công tác phòng chống dịch hiện nay thì việc này lại càng trở nên rất có ý nghĩa”.

Theo nhiều lãnh đạo UBND phường, quy định Chủ tịch UBND phường được ủy quyền cho công chức Tư pháp - Hộ tịch ký chứng thực đã giúp nâng cao hiệu quả thực hiện TTHC, đơn giản hóa quy trình, giảm đáng kể thời gian thực hiện, công dân có thể nhận kết quả ngay khi đến giao dịch tại UBND phường, không phải chờ đợi trong nhiều giờ hay phải đi lại nhiều lần, giảm đáng kể chi phí tuân thủ TTHC.

Chị Nguyễn Thị Thắm, trú tại phường Phúc Đồng, quận Long Biên chia sẻ: “Tôi vừa lấy kết quả chứng thực một số giấy tờ để phục vụ cho công việc. Việc thực hiện rất nhanh chóng, chưa đến một giờ đồng hồ tôi đã nhận được kết quả. Cán bộ niềm nở, nhiệt tình và chu đáo khiến người dân đến làm các thủ tục hành chính cảm thấy thoải mái, nhẹ nhàng…”.

Sau thời gian thực hiện thí điểm, thực tế cho thấy, đề xuất ủy quyền cho công chức Tư pháp - Hộ tịch phường ký chứng thực của TP Hà Nội là sự cải cách TTHC phù hợp, giảm đáng kể chi phí tuân thủ TTHC cho người dân khi đỡ phải đi lại nhiều lần. Tạo điều kiện cho công chức Tư pháp - Hộ tịch chủ động hơn trong bố trí thời gian giải quyết công việc, giảm áp lực công việc và tăng đáng kể thời gian giải quyết các công việc khác cho lãnh đạo UBND phường. Đây cũng là một trong những nội dung thí điểm chính quyền đô thị đang được Hà Nội nỗ lực thực hiện.

Thống kê của Sở Tư pháp Hà Nội cho hay, trung bình trong một năm, 175 phường thuộc 12 quận và thị xã Sơn Tây giải quyết hơn 6 triệu hồ sơ chứng thực bản sao từ bản chính và hơn 200 nghìn hồ sơ chứng thực chữ ký; trung bình một ngày, một phường tiếp nhận và giải quyết từ 80 đến 100 hồ sơ chứng thực.

Bạch Dương

 

 
Hiệu quả từ việc ủy quyền cho công chức Tư pháp ký chứng thực
Thứ tư, 26 Tháng 10 2022 10:30

Hiệu quả từ việc ủy quyền cho công chức Tư pháp ký chứng thực

PHÓNG SỰ - PHẢN ÁNH06:50 | 28/04/2022

Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của cấp ủy, chính quyền, UBND TP Hà Nội cùng sự phối kết hợp giữa các cơ quan, ban, ngành, tổ chức có liên quan, hoạt động chứng thực trên địa bàn TP đã đạt được những kết quả nhất định.

 

Ủy quyền cho công chức Tư pháp - Hộ tịch ký chứng thực nâng cao hiệu quả thực hiện TTHC

Theo Sở Tư pháp Hà Nội, năm 2021, việc chứng thực bản sao, chứng thực chữ ký, chứng thực chữ ký người dịch, lập danh sách, phê duyệt, niêm yết danh sách cộng tác viên dịch thuật được thực hiện theo đúng quy định.

TP tiếp tục vận hành, khai thác, sử dụng hệ thống Một cửa điện tử, dịch vụ công trực tuyến trong lĩnh vực chứng thực. UBND các cấp đã trang bị đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ công tác; công chức được sử dụng phần mềm một cửa, sổ chứng thực điện tử nên công việc nhanh và chính xác.

Trong 10 tháng của năm 2021, cấp huyện đã thực hiện chứng thực 90.043 bản sao, chứng thực 1.332 chữ ký trong giấy tờ, văn bản và 34.926 chữ ký người dịch; tại cấp xã, đã thực hiện tổng số 4.866.624 bản chứng thực bản sao, 220.149 việc chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản và 14.525 việc chứng thực hợp đồng, giao dịch.

Việc thu, nộp, quản lý, sử dụng phí chứng thực được thực hiện theo đúng Thông tư của Bộ Tài chính. Việc quản lý cộng tác viên dịch thuật được đảm bảo đúng quy định, đã phê duyệt 18 cộng tác viên dịch thuật tại 6 Phòng Tư pháp gồm: Thanh Xuân, Long Biên, Gia Lâm, Quốc Oai, Ứng Hòa, Tây Hồ.

Cùng với đó, UBND TP ban hành Kế hoạch số 100/KH-UBND ngày 12/4/2021 và văn bản số 1184/UBND-NC ngày 23/4/2021 để chỉ đạo triển khai việc ủy quyền cho công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp phường ký chứng thực đối với bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong các văn bản, giấy tờ; Trình HĐND TP ban hành Nghị quyết về chi hỗ trợ công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp phường được ủy quyền.

Đồng thời, ban hành Kế hoạch số 03/KH-UBND ngày 7/1/2021 về triển khai dịch vụ công chứng thực bản sao điện tử từ bản chính trên cổng dịch vụ công quốc gia. Đến ngày 21/10/2021, đã có 146/175 phường (đạt tỷ lệ 83,4%) thực hiện ủy quyền cho công chức Tư pháp - Hộ tịch.

Thực hiện khoản 3 Điều 7 Nghị định số 32/2021/NĐ-CP ngày 29/3/2021 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết số 97/2019/QH14 của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại TP Hà Nội.

Đến nay, sau gần một năm triển khai thí điểm Chủ tịch UBND phường ủy quyền cho công chức Tư pháp - Hộ tịch ký chứng thực và đóng dấu của UBND phường (từ ngày 1-7-2021), tiến độ giải quyết hồ sơ hành chính hiệu quả rõ rệt, không những nhanh hơn, lãnh đạo các phường của Hà Nội còn có thêm thời gian để giải quyết những công việc khác của địa phương.

Chủ tịch UBND thị xã Sơn Tây Nguyễn Huy Khánh cho biết, qua gần một năm triển khai thí điểm thực hiện mô hình chính quyền đô thị tại 9 phường trên địa bàn thị xã Sơn Tây cho thấy, mô hình thí điểm chính quyền đô thị nhận được sự đồng thuận từ Nhân dân, công chức các phường.

Theo ông Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch UBND phường Lê Lợi, thị xã Sơn Tây, lượng hồ sơ giao dịch chứng thực tại phường chiếm khoảng 40% tổng hồ sơ chứng thực của toàn thị xã vì UBND phường ở vị trí trung tâm nên nhiều người dân ở phường khác cũng đến đây chứng thực khiến lượng hồ sơ giao dịch lớn. Khi được ủy quyền cho công chức Tư pháp - Hộ tịch ký chứng thực, hồ sơ chứng thực được trả luôn cho công dân, không cần giấy hẹn.

Việc ủy quyền cũng giúp giảm đầu mối, lược bỏ các bước xử lý nội bộ, tạo điều kiện cho công chức Tư pháp - Hộ tịch chủ động hơn trong việc bố trí thời gian giải quyết công việc, tăng đáng kể thời gian giải quyết các công việc khác cho lãnh đạo UBND phường.

Theo thông tin từ Sở Nội vụ Hà Nội, đến nay, toàn TP đã có 146/175 phường (đạt tỷ lệ 83,4%) thực hiện ủy quyền cho công chức Tư pháp - Hộ tịch. Bước đầu việc Chủ tịch UBND phường ủy quyền cho công chức Tư pháp - Hộ tịch ký chứng thực đã giúp nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục hành chính, đơn giản hóa quy trình, giảm đáng kể thời gian thực hiện, công dân có nhận kết quả ngay khi đến giao dịch tại bộ phận Một cửa của UBND phường, không phải chờ đợi trong nhiều giờ hay phải đi lại nhiều lần.

 

 
Chủ tịch phường được ủy quyền cho công chức Tư pháp - Hộ tịch ký chứng thực
Thứ tư, 26 Tháng 10 2022 10:27

Chủ tịch phường được ủy quyền cho công chức Tư pháp - Hộ tịch ký chứng thực

PHÓNG SỰ - PHẢN ÁNH08:01 | 19/10/2021

Việc TP quyết định hỗ trợ 15% mức lương cơ sở/người/tháng là sự quan tâm, động viên thiết thực để mỗi cán bộ Tư pháp – Hộ tịch phường gắn bó, trách nhiệm hơn với công việc của mình...

 

Người dân thực hiện chứng thực tại bộ phận một cửa phường Hà Cầu, quận Hà Đông

Hỗ trợ 15% mức lương cơ sở

Tại Kỳ họp thứ hai, HĐND TP Hà Nội đã thông qua Nghị quyết về việc quy định một số nội dung, mức chi thuộc thẩm quyền của HĐND TP.

Nghị định số 32/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết số 97/2019/QH14 của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại TP Hà Nội quy định: “Chủ tịch phường được ủy quyền cho công chức Tư pháp - Hộ tịch thực hiện ký chứng thực và đóng dấu của UBND phường đối với việc chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp hoặc chứng nhận; chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản theo quy định của pháp luật. Công chức Tư pháp - Hộ tịch được ủy quyền phải có kinh nghiệm từ 3 năm công tác trở lên ở lĩnh vực Tư pháp - Hộ tịch”.

Theo đó, số tiền hỗ trợ hàng tháng cho công chức Tư pháp - Hộ tịch được ủy quyền ký chứng thực là 15% (hoặc 0,15 mức lương cơ sở), bằng số tiền phụ cấp của Bí thư Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh phường và thấp hơn số tiền phụ cấp hàng tháng của Phó Chủ tịch UBND phường (20% hoặc 0,20 mức lương cơ sở).

Trưởng phòng Tư pháp quận Ba Đình bà Lê Thị Hà cho biết, thực tế từ khi thực hiện việc Chủ tịch UBND phường ủy quyền cho công chức Tư pháp – Hộ tịch trực tiếp ký chứng thực cho thấy đã giúp giảm đầu mối, lược bỏ các bước xử lý nội bộ. Đồng thời, tạo điều kiện cho công chức Tư pháp - Hộ tịch phường chủ động hơn trong việc bố trí thời gian giải quyết công việc, giảm áp lực công việc và tăng đáng kể thời gian giải quyết công việc khác cho lãnh đạo UBND phường.

Việc được hỗ trợ kinh phí hàng tháng cho thấy sự quan tâm, động viên, ghi nhận công sức của TP đối với công chức Tư pháp - Hộ tịch các phường trong việc đảm nhận thêm nhiệm vụ ký chứng thực thay cho thay lãnh đạo UBND phường.

Giải quyết hồ sơ nhanh, người dân hài lòng

Theo ghi nhận của PV, từ khi TP thực hiện Đề án thí điểm chính quyền đô thị, công chức Tư pháp - Hộ tịch các phường được lãnh đạo UBND phường ủy quyền trực tiếp ký chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp, chứng nhận và chứng thực chữ ký cho công dân thì thời gian giải quyết hồ sơ nhanh hơn rất nhiều.

Cán bộ Tư pháp – Hộ tịch trực tiếp kiểm tra hồ sơ, nhập dữ liệu, vào sổ, ký và trả hồ sơ cho công dân nên thời gian giải quyết nhanh hơn. Nhiều người dân nhận được kết quả chứng thực ngay mà không phải chờ, hay hẹn sang buổi khác như trước nên rất khen ngợi.

Bà Nguyễn Thị Vân, trú tại phường Hà Cầu, quận Hà Đông chia sẻ: “Tôi đang thực hiện chứng thực các giấy tờ giúp con trai. Trước đây, sáng đưa giấy tờ ra phường rồi nhận giấy hẹn chiều mới lấy được kết quả. Còn bây giờ, được lấy kết quả luôn. Cán bộ, công chức hướng dẫn chu đáo, nhiệt tình, giải quyết thủ tục nhanh như thế này rất thuận lợi cho người dân. Tôi rất hài lòng…”.

Tuy nhiên, thời gian triển khai thực hiện việc ủy quyền từ ngày 1-7, vào thời điểm dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, UBND TP chỉ đạo tạm dừng việc tiếp nhận và trả kết quả giải quyết TTHC theo hình thức trực tiếp nên số lượng hồ sơ chứng thực còn ít và chưa phát sinh các khó khăn, vướng mắc.

Tại một số quận, việc ủy quyền cho công chức Tư pháp – Hộ tịch ký chứng thực được thực hiện linh hoạt, khi cán bộ Tư pháp - Hộ tịch bận, hoặc có quá nhiều hồ sơ thì lãnh đạo UBND phường vẫn ký, để đảm bảo giải quyết hồ sơ nhanh nhất cho người dân.

Theo nhiều lãnh đạo UBND phường, quy định Chủ tịch UBND phường được ủy quyền cho công chức Tư pháp - Hộ tịch ký chứng thực đã giúp nâng cao hiệu quả thực hiện TTHC, đơn giản hóa quy trình, giảm đáng kể thời gian thực hiện, công dân có thể nhận kết quả ngay khi đến giao dịch tại UBND phường, không phải chờ đợi trong nhiều giờ hay phải đi lại nhiều lần, giảm đáng kể chi phí tuân thủ TTHC.

Ngoài việc phải giải quyết thủ tục chứng thực, công chức Tư pháp - Hộ tịch còn phải tiếp nhận và giải quyết 8 TTHC khác trong lĩnh vực chứng thực; 17 TTHC lĩnh vực hộ tịch, 2 thủ tục lĩnh vực nuôi con nuôi, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phối hợp giải quyết tranh chấp, lấn chiếm đất đai, xử lý vi phạm hành chính, vi phạm trật tự xây dựng trên địa bàn.

Khi HĐND TP thông qua đề xuất hỗ trợ kinh phí, công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp cơ sở đều phấn khởi trước sự quan tâm của TP. Chị Hoàng Liên - công chức Tư pháp - Hộ tịch phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm cho hay, từ ngày Nghị định 79 ra đời, thẩm định hồ sơ chứng thực bản sao từ bản chính và chứng thực chữ ký là công việc mà công chức Tư pháp – Hộ tịch phường vẫn thực hiện. Vì vậy, chị rất vui khi được hỗ trợ kinh phí hàng tháng, cho thấy sự quan tâm và ghi nhận của TP.

Bạch Dương

 

 
Nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Thứ sáu, 09 Tháng 9 2022 09:57

Nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

PGS, TS. NGUYỄN ĐỨC MINH

Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

TCCS - Nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức là một trong những điều kiện tiên quyết của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đòi hỏi phải có hệ thống giải pháp đồng bộ trong thời gian tới.

Yêu cầu nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong Nhà nước pháp quyền

Theo quan niệm phổ biến, ý thức pháp luật là hệ thống tri thức, quan điểm, học thuyết về pháp luật thể hiện qua nhận thức, tư tưởng, ý chí, tình cảm, niềm tin, thái độ, sự đánh giá của con người (cá nhân, tổ chức, xã hội) về sự cần có của pháp luật, về bản chất và giá trị, tính đúng đắn, hợp lý, công bằng của pháp luật trong quá khứ, của pháp luật hiện hành và pháp luật cần phải có, về các mối quan hệ giữa pháp luật với hành vi của các chủ thể pháp luật trong các quan hệ pháp luật cụ thể(1). Ý thức pháp luật phản ánh quan điểm, trình độ nhận thức, sự hiểu biết, hệ thống tri thức về pháp luật, ý thức tôn trọng pháp luật cũng như thái độ, phản ứng của chủ thể đối với việc thực hiện pháp luật và hành vi vi phạm pháp luật của các chủ thể khác. Ý thức pháp luật bao gồm tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật. Tư tưởng pháp luật phản ánh thông qua quan điểm, quan niệm, sự hiểu biết, nhận thức của cá nhân về pháp luật. Tâm lý pháp luật biểu hiện tâm trạng, xúc cảm, thái độ của con người đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác(2).

Để Nhà nước tổ chức và hoạt động, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật (khoản 1, Điều 8, Hiến pháp năm 2013), ngoài yêu cầu phải có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thì đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cần hội đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân vì sự phát triển bền vững của đất nước; tôn trọng pháp luật, có tình cảm và thái độ đúng đắn đối với pháp luật, tự giác và nghiêm túc chấp hành, tuân thủ, bảo vệ pháp luật, có tinh thần đấu tranh chống lại các hành vi coi thường và vi phạm pháp luật, thể hiện tâm lý pháp luật tích cực. Ngược lại, nếu cán bộ, công chức, viên chức không có niềm tin, không đồng tình với pháp luật hoặc không ủng hộ giải quyết vấn đề theo pháp luật thì sẽ phản ứng tiêu cực bằng cách không hành động hoặc phản đối, không tôn trọng pháp luật, người đại diện có thẩm quyền thực thi pháp luật. Nếu thiếu kiến thức pháp luật thì cán bộ, công chức, viên chức khó có thể hướng dẫn, tổ chức thực hiện, áp dụng pháp luật, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật, xử lý vi phạm, bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân.Lãnh đạo Bộ Công an kiểm tra việc triển khai cấp căn cước công dân lưu động trên địa bàn thành phố Hà Nội, tháng 12-2020_Ảnh: TTXVN

Ý thức pháp luật đối với người lãnh đạo, quản lý rất quan trọng. Người càng có nhiều mối quan hệ xã hội thì càng bị ràng buộc bởi nhiều quy tắc xử sự. Quyền hạn càng nhiều thì trách nhiệm càng lớn. Đằng sau mỗi quyết sách chính trị, công vụ là sự ràng buộc, trách nhiệm và rủi ro pháp lý. An toàn pháp lý trong quản lý chỉ có được khi người quản lý hành động và quyết định một cách hợp pháp. Việc xử lý hậu quả sẽ phức tạp và mất thời gian hơn nhiều so với thực hiện pháp luật ngay từ đầu một cách hợp pháp. Hơn nữa, khi vi phạm, người cán bộ bị giảm sút uy tín và mất niềm tin của nhân dân. Vì vậy, muốn tránh được các rủi ro pháp lý thì người cán bộ, công chức, viên chức phải có ý thức pháp luật, tôn trọng, nghiêm túc thực hiện, chấp hành và tuân thủ pháp luật.

Thực trạng ý thức pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức

Một là, ý thức pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong hoạt động xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Tư tưởng pháp luật là tiền đề, ảnh hưởng, tác động trực tiếp đến quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Xây dựng pháp luật bao gồm nhiều bước với sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân. Ý thức pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức của họ về nội dung của chính sách, về cách thức và kỹ thuật xây dựng pháp luật, về nội dung điều chỉnh của pháp luật và sử dụng các nguồn luật. Hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay ngày càng được hoàn thiện, do ý thức pháp quyền ngày càng nâng cao và sự nỗ lực của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan, tổ chức và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tích cực tham gia xây dựng pháp luật. Tuy nhiên, trong công tác xây dựng pháp luật cũng còn một số hạn chế nhất định, như một số nội dung trong chủ trương của Đảng về công tác cán bộ chưa được thể chế hóa kịp thời; một số quy định trong hệ thống pháp luật thiếu thống nhất với nhau, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn... Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm nêu trên, trong đó có sự nhận thức chưa sâu sắc, thiếu thống nhất một số chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; năng lực cụ thể hóa, thể chế hóa chủ trương, nghị quyết của Đảng còn hạn chế…(3).

Hai là, ý thức của cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện pháp luật.

Ý thức thi hành (chấp hành), áp dụng, sử dụng, tuân thủ pháp luật là nội dung quan trọng nhất trong ý thức pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức. Ý thức pháp luật thấp là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hiệu quả thực hiện pháp luật thấp. Thông qua hành động thực hiện pháp luật của họ, pháp luật đã hiện thực và phát huy vai trò trong cuộc sống. Hầu hết cán bộ, công chức, viên chức nhận thức rõ nguyên tắc sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật, có ý thức tổ chức kỷ luật. Ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân trong thời gian qua đã có chuyển biến tích cực. Vai trò của pháp luật và thực thi pháp luật ngày càng được chú trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước và đời sống xã hội. Điều này góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân, an ninh, trật tự và phát triển kinh tế - xã hội.

Tuy nhiên, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức còn hạn chế. Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương, phép nước có nơi còn bị xem nhẹ. Công tác thông tin, tuyên truyền một số chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa phong phú, thường xuyên, kịp thời. Ý thức chấp hành pháp luật trong quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu còn thấp. Chỉ đạo và tổ chức thực hiện pháp luật vẫn còn hạn chế. Năng lực tổ chức thực hiện pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ, làm cho pháp luật, nghị quyết chậm được thực hiện và hiệu quả thấp. Một số cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước(4).

Ba là, ý thức bảo vệ pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức.

Hầu hết cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước đều hiểu rõ trách nhiệm, nghĩa vụ tôn trọng pháp luật, có ý thức bảo vệ pháp luật. Trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong công tác đấu tranh phòng, chống hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của tổ chức, cá nhân. Những kết quả đạt được trong công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật; kết quả giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố, hạn chế các trường hợp khởi tố oan và bỏ lọt tội phạm là đáng ghi nhận. Qua đó cho thấy, các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, tạm giữ, tạm giam, thi hành án ngày càng tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật(5). An ninh, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Những kết quả đó phản ánh sự cố gắng của các cơ quan bảo vệ pháp luật, của đội ngũ cán bộ, công chức ngành tư pháp trong công tác bảo vệ pháp luật.

Cùng với các thành tựu nêu trên, cũng còn một số hạn chế trong ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác bảo vệ pháp luật. Đó là việc xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe. Công tác tuyên truyền, phòng ngừa tội phạm một số nơi còn hình thức. Một số cán bộ thực thi pháp luật có ý thức kỷ luật kém, làm ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật. Vẫn còn một số quyết định không khởi tố vụ án bị hủy, quyết định khởi tố vụ án thiếu căn cứ pháp luật, bị trả hồ sơ để điều tra bổ sung do vi phạm tố tụng. Một số trường hợp oan, kháng nghị phúc thẩm có căn cứ được hội đồng xét xử chấp nhận. Những khuyết điểm nêu trên một phần do nhận thức, đánh giá không đúng về hành vi, mức độ phạm tội, sai sót trong áp dụng pháp luật và do cố ý, với động cơ vụ lợi của một số cán bộ tư pháp.  

Tiếp tục nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức

Ý thức pháp luật hình thành từ sự tự giác của cán bộ, công chức, viên chức; nhưng tiền đề, điều kiện để xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức là cần có hệ thống pháp luật đầy đủ, hoàn chỉnh. Vì vậy, Nhà nước cần quan tâm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền; nâng cao năng lực cụ thể hóa, thể chế hóa kịp thời chủ trương, nghị quyết của Đảng, thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung pháp luật đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra(6). Cùng với nâng cao năng lực xây dựng thể chế, cần nâng cao năng lực tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Trong thực thi chức trách, nhiệm vụ, cán bộ, công chức, viên chức phải giữ vững nguyên tắc luật định, có kỹ năng sử dụng pháp luật, chọn lọc, tiếp thu và phản biện, vận dụng sáng tạo và áp dụng linh hoạt pháp luật để vừa đạt được mục đích trong giải quyết công việc nhưng vẫn bảo đảm tính hợp pháp của quá trình ra quyết định.

Cần bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật để công lý và trật tự pháp quyền được thực thi; bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Pháp luật nghiêm minh tạo niềm tin và sự tôn trọng của cán bộ, công chức, viên chức đối với pháp luật; đồng thời răn đe, phòng ngừa làm cho họ không dám vi phạm pháp luật. Sự nghiêm minh của pháp luật đòi hỏi các hành vi vi phạm cần được xử lý kịp thời, triệt để, xác định đúng người, đúng hành vi vi phạm, không có ngoại lệ và vùng cấm, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.

Thứ nhất, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo pháp luật, bồi dưỡng kiến thức pháp lý cho cán bộ, công chức, viên chức.

Để hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao, cán bộ, công chức, viên chức phải tự trang bị cho mình kiến thức, tri thức nền tảng, trong đó có tri thức, hiểu biết về pháp luật, kiến thức, tri thức theo ngành, lĩnh vực chuyên sâu, phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của nhiệm vụ được giao. Đổi mới giáo dục, đào tạo pháp luật, bồi dưỡng kiến thức pháp lý theo yêu cầu đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo quốc dân, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.

Mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật hướng đến xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có năng lực và trình độ đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ, có phẩm chất chính trị, đạo đức, uy tín, có ý thức trách nhiệm công dân và trách nhiệm xã hội, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, tôn trọng và chấp hành pháp luật. Nhiệm vụ giảng dạy pháp luật, bồi dưỡng pháp lý không chỉ giúp người học hiểu rõ, hiểu đúng pháp luật mà còn trang bị cho người học phương pháp, kỹ năng phát hiện và giải quyết vấn đề pháp lý, cách tư duy lô-gíc, hệ thống, sáng tạo và liên ngành. Thu hút sự tham gia giảng dạy của các nhà khoa học, luật sư, luật gia, người làm thực tiễn. Trong nội dung đào tạo pháp luật cần tăng hàm lượng tri thức về pháp luật quốc tế, cung cấp cho người học tư duy sáng tạo ứng dụng thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ứng phó với biến đổi xã hội do tác động của đại dịch COVID-19 và chủ động định hình quá trình chuyển đổi của xã hội, chuyển đổi số. Chú trọng giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội, tôn trọng và chấp hành pháp luật, lòng tự trọng và danh dự của cán bộ, công chức, viên chức. Đổi mới căn bản chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo phương châm khoa học, thực tiễn, sáng tạo và hiện đại, đồng thời chú trọng chất lượng, hiệu quả, phù hợp với từng đối tượng; tăng cường kỷ luật, kỷ cương của hoạt động bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp(7).

Tiếp nhận và giải quyết hồ sơ của các sở, ban, ngành và nhân dân tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh Bắc Giang_Ảnh: TTXVN

Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về công tác tư tưởng chính trị và ý thức tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên.

Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, trách nhiệm, năng lực và động cơ đúng đắn, thực sự tiên phong, gương mẫu, luôn đặt lợi ích của tập thể, quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, thực sự là cán bộ của dân, phục vụ nhân dân. Thực hiện có hiệu quả Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Ban chấp hành Trung ương Đảng, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””, Quy định số 37-QĐ/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về những điều đảng viên không được làm”, sẽ góp phần tích cực vào việc tăng cường ý thức pháp luật của cán bộ, đảng viên. Ngoài ra, để tăng cường ý thức pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức thì cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp cần tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, hiệu quả Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị khóa XIII, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh””.

Thứ ba, phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu và của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.

Phong cách lãnh đạo, quản lý, điều hành, đạo đức, văn hóa ứng xử của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị tác động trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan, đơn vị. Nếu người đứng đầu biết lắng nghe, tiếp thu những ý kiến tham mưu, tư vấn đúng pháp luật, những ý kiến phản biện hợp lý có tính xây dựng, biết đánh giá đúng năng lực, sở trường của cán bộ, công chức, viên chức, biết động viên, khích lệ, tạo thuận lợi cho họ cống hiến, quan tâm lợi ích và công bằng trong đãi ngộ thì sẽ phát huy được năng lực, sở trường của họ; ngược lại sẽ khiến giảm sút động lực phấn đấu. Nếu người đứng đầu tôn trọng và làm việc đúng pháp luật thì sẽ bảo đảm an toàn pháp lý cho cộng sự và cả hệ thống giúp việc. Vì vậy, cần phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu và của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong tôn trọng, chấp hành, tuân thủ và bảo vệ pháp luật, duy trì kỷ luật lao động, nội quy cơ quan, văn hóa công sở.

Thứ tư, xây dựng môi trường văn hóa công sở văn minh, lành mạnh, dân chủ, đoàn kết, nhân văn.

Văn hóa tác động rất lớn đến tâm lý pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức. Xây dựng môi trường làm việc văn minh, lành mạnh, kỷ luật, dân chủ, đoàn kết, chân thành, thân thiện, mọi người tự giác làm việc, tôn trọng, tin cậy, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, chia sẻ giá trị và phấn đấu vì mục tiêu chung giúp cho cán bộ, công chức, viên chức có tâm lý thoải mái, yên tâm công tác, gắn bó với cơ quan, đơn vị. Ngược lại, nếu trong cơ quan có cán bộ, công chức, viên chức không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, kỷ luật lao động, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, không còn uy tín đối với quần chúng nhưng không bị xử lý kịp thời thì sẽ gây ra phản ứng tiêu cực của cán bộ, công chức, viên chức, giảm niềm tin vào sự nghiêm minh của pháp luật và ảnh hưởng không tốt đến tâm lý pháp luật của họ.

Nhà nước pháp quyền cần có đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có ý thức thượng tôn pháp luật. Xây dựng ý thức pháp luật và lối sống tuân thủ pháp luật vừa là trách nhiệm, sự rèn luyện của mỗi cán bộ, công chức, viên chức, đồng thời vừa là yêu cầu, nhiệm vụ của các cấp ủy, chính quyền các cấp. Việc xây dựng và thực hiện Chiến lược hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, chiến lược pháp luật, chiến lược cải cách tư pháp trong thời gian tới cần rất quan tâm nội dung về tăng cường ý thức pháp luật nói chung, ý thức pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức nói riêng./.

--------------------------------

(1) Xem: Nguyễn Minh Đoan: Hướng dẫn môn học Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2014, tr. 471; Hoàng Thị Kim Quế (Chủ biên): Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội, 2007, tr. 430
(2) Xem: Nguyễn Minh Đoan, Nguyễn Văn Năm (chủ biên): 
Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2020, tr. 445 - 446
(3) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 89, 91, 93 - 94
(4) Xem: Kết luận số 80-KL/TW, ngày 20-6-2020, của Ban Bí thư, “Về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW, ngày 09-12-2003 của Ban Bí thư”; 
Kết luận 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị khóa XIII, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh””.
(5) Xem:  “Báo cáo tóm tắt tổng kết công tác nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao”, Cổng thông tin điện tử Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, https://www.vksndtc.gov.vn/tin-hoat-dong-vksnd-toi-cao/bao-cao-tong-ket-cong-tac-nhiem-ky-quoc-hoi-khoa-x-d2-t9125.html?Page=4 new-related
, ngày 09-4-2021
(6), (7) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I tr. 175, 182 - 183

 

 
Các bài viết khác...
  • Nâng cao ý thức pháp luật của người dân: Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đóng vai trò quan trọng
  • Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật theo tinh thần văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
  • Một số vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm về ma túy dưới góc độ tội phạm học
  • Nguyên nhân tội phạm ngày càng trẻ hóa và các giải pháp phòng ngừa
<< Bắt đầu < Lùi 1 2 3 4 5 6 Tiếp theo > Cuối >>

Trang 1 trong tổng số 6

CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ PHÒNG TƯ PHÁP TAM KỲ

Trụ sở: 159 Trưng Nữ Vương -Thành phố Tam Kỳ- Tỉnh Quảng Nam

Email: tuphaptamky288@gmail.com | Website: www.tuphaptamky.gov.vn - Designed by Netlinkvn.com

Ghi rõ nguồn www.tuphaptamky.gov.vn khi sử dụng thông tin trên website này

.
vận chuyển hàng bắc nam,taxi tải hà nội,cho thuê xe tải chở hàng,vận tải bắc nam,https://xosoketqua.com/xsmn-xo-so-mien-nam.html